Bác sĩ Bình
Chuyên khoa Truyền nhiễm - Hơn 23 năm công tác HIV
Ban Quản Trị
Phòng Khám Viễn Đông & Lab Viễn Đông: 361/4 Nguyễn Văn Luông, P.12, Q.6, TP.HCM
Có một thực tế là ở xã hội nào cũng có hiện tượng tình yêu và tình dục đồng giới. Đó là điều chắc chắn. Tỉ lệ những người đồng tính nói chung gần như không thay đổi ở mọi xã hội, mọi thời đại trong suốt những thiên niên kỷ qua. Chúng chiếm khoảng 5% dân số mỗi quốc gia, tỉ lệ này bao gồm cả gay, les hoặc bisexual.
Pháp luật sẽ không cấm đối với hôn nhân đồng tính?
Hà Nội đề xuất tiếp tục cấm kết hôn đồng tính
Vụ "nam giới bán dâm": Có cả người nước ngoài mua dâm đồng tính!
Tỉ lệ không thay đổi
Đó là xu hướng tính dục có tính chất cố định, không một cá nhân nào có thể lựa chọn giới tính cho mình. Sự đồng tính được hình thành từ bé dưới sự tác động qua lại của các yếu tố sinh học, tâm lý và xã hội, thậm chí nó còn có trước khi nếm trải… tình dục.
Rất nhiều người đã từng “phán xét” xu hướng yêu đương và chuyện tình dục của những người đồng tính dưới góc độ đạo đức và tôn giáo hoặc tâm lý chủ quan, mà ít ai quan tâm đến các yếu tố di truyền, sinh học một cách nghiêm túc để hiểu rõ hơn về xu hướng tình dục này. Thực chất, đồng tính luyến ái không có hại cho cộng đồng xã hội. Nó không phải là căn bệnh hay một loại virus nào đó có thể lây lan và nó chỉ thuộc một “dân tộc thiểu số” trong một cộng đồng to lớn.
Đồng tính luyến ái chưa bao giờ gây nguy hiểm hay đe dọa cho sự tồn tại của giống loài. Nhiều người trong thời kỳ dậy thì phát hiện xu hướng tính dục “khác lạ” của mình và tìm mọi cách để thay đổi nhưng hoàn toàn…thất bại. Khoa học đã chứng minh, con người từ lúc sinh ra thái độ tình dục đã được quy định sẵn.
Đồng tính do cấu tạo gen?
Ở thập niên 90, một nhóm nghiên cứu y học ở Anh đã tìm ra được mối liên hệ giữa gen và chứng đồng tính. Họ đưa ra quá trình phân tích bộ gen của gần 500 người đàn ông, trong đó gần 200 gia đình có từ hai anh em trai trở lên là gay. Kết quả họ xác định được những đoạn ADN giống hệt nhau trên ba nhiễm sắc thể thường - số 7, 8 và 10 - trên khoảng 60% cặp gay anh em. Nếu ở các cặp đồng tính ngẫu nhiên, tỷ lệ ADN giống nhau chỉ là 50%. Mặt khác, họ cũng nhận thấy đoạn ADN trên nhiễm sắc thể số 10 có liên quan đến xu hướng giới tính chỉ khi nó được thừa hưởng từ mẹ. Từ công trình này họ khẳng định, gen đóng vai trò quan trọng trong việc tạo nên một người đàn ông đích thực hay là gay.
Cũng trong khoảng thời gian đó, một vị bác sĩ thuộc khoa Thần kinh, Viện Salk (Mỹ) đã công bố nghiên cứu giải phẫu một phần não vùng dưới đầu của 40 tử thi. Trong số đó là một nửa người đồng tính luyến ái. Bác sĩ phát hiện ra rằng, những người đồng tính luyến ái, thành phần INH3 (cấu trúc nhỏ được biết đến như một yếu tố điều khiển thái độ tính dục ở động vật có vú) nhỏ gấp hai lần so với những người bình thường khác.
Những người này có biểu hiện bất thường về gen, nội tiết hoặc cơ quan sinh dục. Nguyên nhân dẫn đến khiếm khuyết giới tính có thể do quá trình mang thai bị đột biến gen, do di truyền bị khiếm khuyết nhiễm sắc thể hoặc những bất thường nội. Vì thế, những người tình dục đồng giới chỉ là nạn nhân của một cấu trúc sinh học mà họ không thể thay đổi được.
Trái ngược với những nghiên cứu trên, đầu năm 2000, một nhóm khoa học khác thuộc khu vực châu Á lại phản bác yếu tố kiểu gen này. Họ chỉ ra: “Tỉ lệ cùng đồng tính ở sinh đôi cùng trứng là 6.7%, ở sinh đôi khác trứng là 7.2%, ở các cặp anh chị em bình thường là 5.5%. Rõ ràng, kết quả cho thấy sự giống nhau về thiên hướng tình dục không tương ứng với sự giống nhau về kiểu gen. Yếu tố kiểu gen nếu có thì nó đã bị các yếu tố khác trội hơn lấn áp. Chính vì thế, những biểu hiện ham muốn đồng giới cần phải có một môi trường xã hội nào đó hoặc do tâm lý tác động.
Chuyện tình dục của người đồng tính
Cũng giống như các cặp dị tính, tình dục là là một điều không thể thiếu trong mối quan hệ tình yêu giữa những người đồng giới. Tuy nhiên, có sự khác nhau trong chuyện tình dục giữa đồng tính nữ và đồng tính nam.
Theo nghiên cứu của Tiến sĩ Phạm Quỳnh Phương, tình dục vừa được coi là nhu cầu cá nhân, vừa được coi là cách thể hiện tình cảm với người mình yêu thương. Vai trò tình dục trong cuộc sống lứa đôi tương đối khác giữa nam và nữ đồng tính.
“Ở các cặp nữ đồng tính, tình dục luôn đi kèm với tình yêu và tình dục thường nghiêng về phía quan niệm coi đó là cách thể hiện tình cảm, tình yêu hơn là nhu cầu cá nhân. Trong khi đó, tình dục ở các cặp nam đồng tính lại nghiêng nhiều về nhu cầu cá nhân hơn” – tiến sĩ Phương phân tích.
Nghiên cứu cũng biết, với một đôi đồng tính nam đã có mối quan hệ trên 20 năm thì cho rằng giai đoạn 20-30 tuổi việc được chung sống, quan hệ tình dục là điều quan trọng, nhưng ở lứa tuổi 40, họ chỉ mong muốn công ăn việc làm tốt và chăm lo cho bố mẹ hai bên. Điều này cũng phản ánh sự thay đổi thông thường về nhu cầu tình dục theo lứa tuổi.
Một điều không thể không nói đến, đó là do bị kỳ thị, người đồng tính không dám thể hiện tình cảm thực của mình ở nơi công cộng và phải thực hiện những hành vi tình dục với bạn tình ở những nơi không an toàn. Điều này khiến cho việc cung cấp thông tin và dịch vụ về các nguy cơ sức khỏe và hành vi tình dục an toàn hơn trở nên khó khăn hơn bởi vì nam giới không bộc lộ khuynh hướng và hành vi tình dục của mình cũng như các tổ chức và cá nhân làm việc trong lĩnh vực phòng chống HIV có thể không sẵn sàng hỗ trợ họ.
(LĐO) B.B.H TỔNG HỢP
Pháp luật sẽ không cấm đối với hôn nhân đồng tính?
Hà Nội đề xuất tiếp tục cấm kết hôn đồng tính
Vụ "nam giới bán dâm": Có cả người nước ngoài mua dâm đồng tính!
Tỉ lệ không thay đổi
Đó là xu hướng tính dục có tính chất cố định, không một cá nhân nào có thể lựa chọn giới tính cho mình. Sự đồng tính được hình thành từ bé dưới sự tác động qua lại của các yếu tố sinh học, tâm lý và xã hội, thậm chí nó còn có trước khi nếm trải… tình dục.
Rất nhiều người đã từng “phán xét” xu hướng yêu đương và chuyện tình dục của những người đồng tính dưới góc độ đạo đức và tôn giáo hoặc tâm lý chủ quan, mà ít ai quan tâm đến các yếu tố di truyền, sinh học một cách nghiêm túc để hiểu rõ hơn về xu hướng tình dục này. Thực chất, đồng tính luyến ái không có hại cho cộng đồng xã hội. Nó không phải là căn bệnh hay một loại virus nào đó có thể lây lan và nó chỉ thuộc một “dân tộc thiểu số” trong một cộng đồng to lớn.
Đồng tính luyến ái chưa bao giờ gây nguy hiểm hay đe dọa cho sự tồn tại của giống loài. Nhiều người trong thời kỳ dậy thì phát hiện xu hướng tính dục “khác lạ” của mình và tìm mọi cách để thay đổi nhưng hoàn toàn…thất bại. Khoa học đã chứng minh, con người từ lúc sinh ra thái độ tình dục đã được quy định sẵn.
Đồng tính do cấu tạo gen?
Ở thập niên 90, một nhóm nghiên cứu y học ở Anh đã tìm ra được mối liên hệ giữa gen và chứng đồng tính. Họ đưa ra quá trình phân tích bộ gen của gần 500 người đàn ông, trong đó gần 200 gia đình có từ hai anh em trai trở lên là gay. Kết quả họ xác định được những đoạn ADN giống hệt nhau trên ba nhiễm sắc thể thường - số 7, 8 và 10 - trên khoảng 60% cặp gay anh em. Nếu ở các cặp đồng tính ngẫu nhiên, tỷ lệ ADN giống nhau chỉ là 50%. Mặt khác, họ cũng nhận thấy đoạn ADN trên nhiễm sắc thể số 10 có liên quan đến xu hướng giới tính chỉ khi nó được thừa hưởng từ mẹ. Từ công trình này họ khẳng định, gen đóng vai trò quan trọng trong việc tạo nên một người đàn ông đích thực hay là gay.
Cũng trong khoảng thời gian đó, một vị bác sĩ thuộc khoa Thần kinh, Viện Salk (Mỹ) đã công bố nghiên cứu giải phẫu một phần não vùng dưới đầu của 40 tử thi. Trong số đó là một nửa người đồng tính luyến ái. Bác sĩ phát hiện ra rằng, những người đồng tính luyến ái, thành phần INH3 (cấu trúc nhỏ được biết đến như một yếu tố điều khiển thái độ tính dục ở động vật có vú) nhỏ gấp hai lần so với những người bình thường khác.
Những người này có biểu hiện bất thường về gen, nội tiết hoặc cơ quan sinh dục. Nguyên nhân dẫn đến khiếm khuyết giới tính có thể do quá trình mang thai bị đột biến gen, do di truyền bị khiếm khuyết nhiễm sắc thể hoặc những bất thường nội. Vì thế, những người tình dục đồng giới chỉ là nạn nhân của một cấu trúc sinh học mà họ không thể thay đổi được.
Trái ngược với những nghiên cứu trên, đầu năm 2000, một nhóm khoa học khác thuộc khu vực châu Á lại phản bác yếu tố kiểu gen này. Họ chỉ ra: “Tỉ lệ cùng đồng tính ở sinh đôi cùng trứng là 6.7%, ở sinh đôi khác trứng là 7.2%, ở các cặp anh chị em bình thường là 5.5%. Rõ ràng, kết quả cho thấy sự giống nhau về thiên hướng tình dục không tương ứng với sự giống nhau về kiểu gen. Yếu tố kiểu gen nếu có thì nó đã bị các yếu tố khác trội hơn lấn áp. Chính vì thế, những biểu hiện ham muốn đồng giới cần phải có một môi trường xã hội nào đó hoặc do tâm lý tác động.
Chuyện tình dục của người đồng tính
Cũng giống như các cặp dị tính, tình dục là là một điều không thể thiếu trong mối quan hệ tình yêu giữa những người đồng giới. Tuy nhiên, có sự khác nhau trong chuyện tình dục giữa đồng tính nữ và đồng tính nam.
Theo nghiên cứu của Tiến sĩ Phạm Quỳnh Phương, tình dục vừa được coi là nhu cầu cá nhân, vừa được coi là cách thể hiện tình cảm với người mình yêu thương. Vai trò tình dục trong cuộc sống lứa đôi tương đối khác giữa nam và nữ đồng tính.
“Ở các cặp nữ đồng tính, tình dục luôn đi kèm với tình yêu và tình dục thường nghiêng về phía quan niệm coi đó là cách thể hiện tình cảm, tình yêu hơn là nhu cầu cá nhân. Trong khi đó, tình dục ở các cặp nam đồng tính lại nghiêng nhiều về nhu cầu cá nhân hơn” – tiến sĩ Phương phân tích.
Nghiên cứu cũng biết, với một đôi đồng tính nam đã có mối quan hệ trên 20 năm thì cho rằng giai đoạn 20-30 tuổi việc được chung sống, quan hệ tình dục là điều quan trọng, nhưng ở lứa tuổi 40, họ chỉ mong muốn công ăn việc làm tốt và chăm lo cho bố mẹ hai bên. Điều này cũng phản ánh sự thay đổi thông thường về nhu cầu tình dục theo lứa tuổi.
Một điều không thể không nói đến, đó là do bị kỳ thị, người đồng tính không dám thể hiện tình cảm thực của mình ở nơi công cộng và phải thực hiện những hành vi tình dục với bạn tình ở những nơi không an toàn. Điều này khiến cho việc cung cấp thông tin và dịch vụ về các nguy cơ sức khỏe và hành vi tình dục an toàn hơn trở nên khó khăn hơn bởi vì nam giới không bộc lộ khuynh hướng và hành vi tình dục của mình cũng như các tổ chức và cá nhân làm việc trong lĩnh vực phòng chống HIV có thể không sẵn sàng hỗ trợ họ.
(LĐO) B.B.H TỔNG HỢP