Seroconversion is the interval, several weeks after HIV infection, during which antibodies are first produced and rise to detectable levels. Antibodies generally begin to appear within one to two weeks of exposure, and antibody concentrations (titres) continue to increase for several months thereafter. Seroconversion takes place within three weeks in most infected individuals, although very rare cases are reported in which seroconversion does not occur for up to a year.
Chuyển đảo huyết thanh là giai đoạn vài tuần sau khi nhiễm virus HIV, khi mà kháng thể bắt đầu xuất hiện và tăng lên đến mức có thể phát hiện được. Kháng thể thường bắt đầu xuất hiện trong vòng một đến hai tuần tiếp xúc, và nồng độ kháng thể (titres) tiếp tục tăng trong vài tháng sau đó. Chuyển đổi huyết thanh diễn ra trong khoảng ba tuần ở hầu hết các cá thể bị nhiễm HIV, mặc dù vẫn có các trường hợp rất hiếm được báo cáo trong đó chuyển đảo huyết thanh không xảy ra trong một năm.
Seroconversion is often – although not always – accompanied by a flare of symptoms called seroconversion illness (sometimes also called acute retroviral syndrome). Symptomatic seroconversion illness occurs in at least 50%, and possibly as many as 80 or 90%, of infected individuals.
Chuyển đảo huyết thanh thường kèm theo một đợt bùng phát các triệu chứng được gọi là bệnh chuyển đổi huyết thanh (đôi khi còn được gọi là hội chứng retrovirus cấp tính). Triệu chứng có triệu chứng xảy ra trong ít nhất 50%, và có thể tới 80 hoặc 90% số người bị nhiễm bệnh. Vẫn có những trường hợp người nhiễm không có triệu chứng.
These symptoms typically begin one to four weeks after infection and almost always resolve within two to three weeks, although the swollen lymph nodes, tiredness and malaise can persist much longer. Since most symptoms are so non-specific. They may easily be missed or misattributed to a flu or other viral infection.
Những triệu chứng này thường xuất hiện từ một đến bốn tuần sau khi nhiễm trùng và kéo dài trong vòng hai đến ba tuần, mặc dù các hạch bạch huyết sưng, mệt mỏi và khó chịu có thể kéo dài lâu hơn. Vì hầu hết các triệu chứng đều không đặc hiệu, dễ dàng bị nhầm với bệnh cúm hoặc nhiễm virus khác.
The interval after infection, but prior to seroconversion, is called the window period.
Khoảng thời gian từ khi bị nhiễm đến khi chuyển đảo huyết thanh được gọi là thời gian cửa sổ
Chuyển đảo huyết thanh là giai đoạn vài tuần sau khi nhiễm virus HIV, khi mà kháng thể bắt đầu xuất hiện và tăng lên đến mức có thể phát hiện được. Kháng thể thường bắt đầu xuất hiện trong vòng một đến hai tuần tiếp xúc, và nồng độ kháng thể (titres) tiếp tục tăng trong vài tháng sau đó. Chuyển đổi huyết thanh diễn ra trong khoảng ba tuần ở hầu hết các cá thể bị nhiễm HIV, mặc dù vẫn có các trường hợp rất hiếm được báo cáo trong đó chuyển đảo huyết thanh không xảy ra trong một năm.

Seroconversion is often – although not always – accompanied by a flare of symptoms called seroconversion illness (sometimes also called acute retroviral syndrome). Symptomatic seroconversion illness occurs in at least 50%, and possibly as many as 80 or 90%, of infected individuals.
Chuyển đảo huyết thanh thường kèm theo một đợt bùng phát các triệu chứng được gọi là bệnh chuyển đổi huyết thanh (đôi khi còn được gọi là hội chứng retrovirus cấp tính). Triệu chứng có triệu chứng xảy ra trong ít nhất 50%, và có thể tới 80 hoặc 90% số người bị nhiễm bệnh. Vẫn có những trường hợp người nhiễm không có triệu chứng.
These symptoms typically begin one to four weeks after infection and almost always resolve within two to three weeks, although the swollen lymph nodes, tiredness and malaise can persist much longer. Since most symptoms are so non-specific. They may easily be missed or misattributed to a flu or other viral infection.
Những triệu chứng này thường xuất hiện từ một đến bốn tuần sau khi nhiễm trùng và kéo dài trong vòng hai đến ba tuần, mặc dù các hạch bạch huyết sưng, mệt mỏi và khó chịu có thể kéo dài lâu hơn. Vì hầu hết các triệu chứng đều không đặc hiệu, dễ dàng bị nhầm với bệnh cúm hoặc nhiễm virus khác.
The interval after infection, but prior to seroconversion, is called the window period.
Khoảng thời gian từ khi bị nhiễm đến khi chuyển đảo huyết thanh được gọi là thời gian cửa sổ
-
3
- Show all