[h=2][/h]
1. Lịch sử nghiên cứu
- Nấm Penicillium marneffei được mô tả và định danh lần đầu năm 1956. Tình cờ trong khi nghiên cứu về sốt typhus tại Viện Pasteur Đà Lạt, M. Capponi đã phát hiện thấy sự hiện diện của loại nấm này trong nội tạng của dúi (Rhizomys sinensis). Mẫu nấm được chuyển về Viện Pasteur Paris để G. Segretain tiếp tục nghiên cứu và được đặt tên là P. marneffei theo tên của Hubert Marneffe, giám đốc Viện Pasteur Đông Dương giai đoạn 1946-1956.
- Trường hợp nhiễm ở người lần đầu tiên được mô tả trên chính bản thân G. Segretain khi ông không may bị kim tiêm đâm phải ngón tay lúc tiêm truyền P. marneffei cho chuột đồng. Chín ngày sau đó, nhà nghiên cứu này bị sẩn cục nhỏ tại nơi kim chọc phải, rồi sưng hạch nách và phải dùng đến 20 triệu đơn vị nystatin trong 30 ngày. Trong những năm 1960, rải rác có những báo cáo về bệnh do nấm Penicillium (“pénicilliose”, “penicilliosis”) nhưng phải tới năm 1973 mới có báo cáo trường hợp nhiễm tự nhiên đầu tiên trên người, một bệnh nhân 61 tuổi phải cắt lách do bị bệnh Hodgkin. Loại nấm này đã được phân lập từ bệnh phẩm lách của bệnh nhân. Sau phẫu thuật này, bệnh nhân hồi phục ổn định và tử vong sau đó 10 năm không có bệnh tích gì liên quan đến nấm. Trường hợp nhiễm thứ 2 được báo cáo năm 1984 trong bệnh cảnh ho máu dai dẳng nghi giãn phế quản, sau khi cắt phổi mới khẳng định được nhiễm. Cũng trong thời gian này, các tác giả Thái Lan cũng báo cáo một loạt 5 trường hợp gặp tại bệnh viện Ramathibodi - Bangkok năm 1974-1982 với bệnh cảnh chung là sốt, hạch to toàn thân cùng với các tổn thương mô mềm, xương khớp và phổi, trong đó 4 bệnh nhân thoạt đầu đã được chẩn đoán và điều trị như lao. Một năm sau đó, Đặng Trác Lâm báo cáo 8 trường hợp do căn bệnh này tại Quảng Tây, Trung Quốc.
- Những năm 1980-1990, cùng với sự xuất hiện đại dịch HIV, ngày càng có nhiều trường hợp nhiễm P. marneffei. Năm 1988, những trường hợp bệnh ở người HIV lần đầu tiên được báo cáo là những người lữ khách đến vùng bệnh lưu hành và người bản xứ tại Thái Lan. Các trường hợp được báo cáo tập trung ở miền Nam Trung Quốc, Đài Loan, Đông Nam Á. Có những trường hợp được báo cáo ở các nơi khác không có liên quan gì đến những khu vực này, nhưng rất hiếm. Tại Đông Nam Á, bệnh do P. marneffei đã từng được đánh giá là bệnh nhiễm trùng cơ hội đứng hàng thứ ba ở bệnh nhân HIV/AIDS, sau lao và bệnh do cryptococcus.
- Những năm 1990-2000, Thái Lan là nước tiên phong trong việc thử nghiệm điều trị và dự phòng bệnh do P. marneffei. Trong thập niên vừa qua, các nhà khoa học đang cố gắng tìm ra biện pháp chẩn đoán bệnh sớm, nhanh gọn và thuận tiện, đồng thời đi sâu vào cơ chế bệnh sinh cũng như làm sáng tỏ những điểm còn chưa rõ về dịch tễ học.
BỆNH DO NẤM PENICILLIUM MARNEFFEI
ThS. BS. Nguyễn Quốc Thái
1. Lịch sử nghiên cứu
- Nấm Penicillium marneffei được mô tả và định danh lần đầu năm 1956. Tình cờ trong khi nghiên cứu về sốt typhus tại Viện Pasteur Đà Lạt, M. Capponi đã phát hiện thấy sự hiện diện của loại nấm này trong nội tạng của dúi (Rhizomys sinensis). Mẫu nấm được chuyển về Viện Pasteur Paris để G. Segretain tiếp tục nghiên cứu và được đặt tên là P. marneffei theo tên của Hubert Marneffe, giám đốc Viện Pasteur Đông Dương giai đoạn 1946-1956.
- Trường hợp nhiễm ở người lần đầu tiên được mô tả trên chính bản thân G. Segretain khi ông không may bị kim tiêm đâm phải ngón tay lúc tiêm truyền P. marneffei cho chuột đồng. Chín ngày sau đó, nhà nghiên cứu này bị sẩn cục nhỏ tại nơi kim chọc phải, rồi sưng hạch nách và phải dùng đến 20 triệu đơn vị nystatin trong 30 ngày. Trong những năm 1960, rải rác có những báo cáo về bệnh do nấm Penicillium (“pénicilliose”, “penicilliosis”) nhưng phải tới năm 1973 mới có báo cáo trường hợp nhiễm tự nhiên đầu tiên trên người, một bệnh nhân 61 tuổi phải cắt lách do bị bệnh Hodgkin. Loại nấm này đã được phân lập từ bệnh phẩm lách của bệnh nhân. Sau phẫu thuật này, bệnh nhân hồi phục ổn định và tử vong sau đó 10 năm không có bệnh tích gì liên quan đến nấm. Trường hợp nhiễm thứ 2 được báo cáo năm 1984 trong bệnh cảnh ho máu dai dẳng nghi giãn phế quản, sau khi cắt phổi mới khẳng định được nhiễm. Cũng trong thời gian này, các tác giả Thái Lan cũng báo cáo một loạt 5 trường hợp gặp tại bệnh viện Ramathibodi - Bangkok năm 1974-1982 với bệnh cảnh chung là sốt, hạch to toàn thân cùng với các tổn thương mô mềm, xương khớp và phổi, trong đó 4 bệnh nhân thoạt đầu đã được chẩn đoán và điều trị như lao. Một năm sau đó, Đặng Trác Lâm báo cáo 8 trường hợp do căn bệnh này tại Quảng Tây, Trung Quốc.
- Những năm 1980-1990, cùng với sự xuất hiện đại dịch HIV, ngày càng có nhiều trường hợp nhiễm P. marneffei. Năm 1988, những trường hợp bệnh ở người HIV lần đầu tiên được báo cáo là những người lữ khách đến vùng bệnh lưu hành và người bản xứ tại Thái Lan. Các trường hợp được báo cáo tập trung ở miền Nam Trung Quốc, Đài Loan, Đông Nam Á. Có những trường hợp được báo cáo ở các nơi khác không có liên quan gì đến những khu vực này, nhưng rất hiếm. Tại Đông Nam Á, bệnh do P. marneffei đã từng được đánh giá là bệnh nhiễm trùng cơ hội đứng hàng thứ ba ở bệnh nhân HIV/AIDS, sau lao và bệnh do cryptococcus.
- Những năm 1990-2000, Thái Lan là nước tiên phong trong việc thử nghiệm điều trị và dự phòng bệnh do P. marneffei. Trong thập niên vừa qua, các nhà khoa học đang cố gắng tìm ra biện pháp chẩn đoán bệnh sớm, nhanh gọn và thuận tiện, đồng thời đi sâu vào cơ chế bệnh sinh cũng như làm sáng tỏ những điểm còn chưa rõ về dịch tễ học.